Saturday, April 14, 2012

Giảng văn chọn lọc Văn học Việt Nam_trần đình sử

LỜI NGƯỜI LÀM SÁCH
Phân tích, bình giảng, bình luận các tác phẩm văn học (hoặc đoạn trích) là yêu cầu bắt buộc đối với học sinh trung học. Công việc này đòi hỏi người học thể hiện năng lực hiểu biết về văn học và lịch sử, văn hóa, đời sống. Công việc này cũng bộc lộ năng khiếu, thị hiếu và khả năng biểu đạt của học sinh.
Để nâng cao năng lực đọc hiểu văn, học văn, năng lực cảm và biểu đạt, chúng tôi soạn cuốn Giảng văn chọn lọc Văn học Việt Nam này cho nhiều đối tượng nhưng chủ yếu là cho học sinh trung học phổ thông. Sau là cho cha mẹ học sinh, đọc để góp phần hướng dẫn con em mình học tập. Cuối cùng là cho đông đảo bạn đọc muốn thưởng thức kĩ lưỡng những tác phẩm, áng văn, đoạn văn bất hủ.
Để thiết thực đáp ứng yêu cầu học tập của học sinh, sách chọn giảng những tác phẩm có trong chương trình sách giáo khoa mới, chú trọng tới những định hướng ra đề thi và thi vào Đại học, Trung học chuyên nghiệp. Mặt khác, để đáp ứng yêu cầu học tập và thưởng thức, chúng tôi chọn những bài giảng văn hay của các tác giả quen biết. Đa số tác phẩm, đoạn trích, chúng ta chọn hai, ba bài giảng để thấy những cách hiểu khác nhau bổ sung cho nhau, khai thác những khía cạnh khác nhau của tác phẩm. Các bài được chọn có phong cách, phương pháp giảng văn đa dạng, giúp học sinh gợi mở nhiều cách tiếp cận, trai dồi ý tứ thêm dồi dào, học cách hành văn thêm linh hoạt.
Cuốn Giảng văn chọn lọc Văn học Việt Nam đã được Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội in lần đầu tiên năm 2001, được bạn đọc đón nhận và yêu mến và đã được tái bản nhiều lần. Lần in này, chúng tôi bổ sung nhiều tư liệu mới đáp ứng yêu cầu chương trình phổ thông trung học của bộ sách giáo khoa mới nhằm giúp học sinh tiếp cận các tác phẩm một cách có hệ thống và đạt hiệu quả cao hơn.
Sách được chia làm hai phần chính:
+Văn học dân gian và văn học cổ, hiện đại.
+Văn học hiện đại.
Trong quá trình tuyển chọn, chúng tôi chưa liên hệ được với một số tác giả bài viết, người biên soạn mong được sự thông cảm của tác giả và xin trân trọng cảm ơn.
T/M nhóm biên soạn
GS.TS Trần Đình Sử
Phần một
VĂN HỌC DÂN GIAN VÀ VĂN HỌC CỔ, CẬN ĐẠI
Chiến thắng MTAO MXÂY
(Trích Đăm Săn-Sử thi Tây Nguyên)
Bài 1: VẺ ĐẸP ĐĂM SĂN TRONG ĐOẠN TRÍCH CHIẾN THẮNG MTAO MXÂY
Trần Hà Nam (*)
Từ bao đời nay, người Ê-đê đã cùng quây quần bên bếp lửa, nghe không biết chán từ đêm này sang đêm khác khan Đăm Săn, bài ca về người tù trưởng anh hùng của dân tộc mình với những chiến công hiển hách trong xây dựng phát triển buôn làng và bảo vệ cộng đồng chống lại bao kẻ thù hung hãn. Trong những chiến công lừng lẫy ấy, ngất ngây lòng người vẫn là đoạn Chiến thắng Mtao Mxây, chứng tỏ tài năng, bản lĩnh, lòng dũng cảm phi thường và sức mạnh vô địch của Đăm Săn.
Sở dĩ xảy ra cuộc chiến này là do Mtao Mxây (tù trưởng Sắt) đã cướp Hơ Nhí-vợ của Đăm Săn. Đối với người Ê-đê theo chế độ mẫu hệ, việc bị kẻ thù cướp mất vợ là một nỗi sỉ nhục của cả cộng đồng. Chiến thắng Mtao Mxây là lần thứ hai Đăm Săn phải chiến đấu với kẻ thù để giành lại người vợ, chứng tỏ sự hùng mạnh của Đăm Săn. Chàng phải đối mặt với kẻ thù hung bạo và cũng có sức mạnh phi thường không kém. Hàng loạt những hình ảnh so sánh trong đoạn trích cho thấy rõ sự

Thursday, April 12, 2012

Hương rừng Cà Mau_Sơn Nam_NXB TRẺ TP.HCM_1986

Lời giới thiệu
Quyển sách đã có một bài thơ thay lời tựa, viết thêm lời giới thiệu có phải là một việc thừa? Đó là nỗi băn khoăn của tôi khi viết những dòng này.
Hơn nữa, bài thơ ấy, ngày xưa cũng như hôm nay vẫn gợi trong tôi một nỗi nhớ nhung mênh mông, thăm thẳm đối với vùng đất U Minh muỗi mòng đỉa vắt, tràm nước bạc ngàn, dớn choại âm u, đỏ ngầu dòng nước.
"Muỗi vắt nhiều hơn cỏ
"Chướng khí mù như sương
"Thân không là lính thú
"Sao chưa về cố hương?...
Nhưng với tình bạn cố tri trên nửa đời chiến đấu, viết đôi lời giới thiệu Sơn Nam và tác phẩm của anh để độc giả hiểu rõ hơn về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm này gẫm đâu phải là vô ích.
Trong kháng chiến chống Pháp, Sơn Nam lúc ấy là Phan Anh Tài) hoạt động ở chiến trường khu Chín, Cà Mau, U Minh, là địa bàn vùng vẫy của anh.
Suốt những tháng năm dài anh đã dọc ngang khắp vùng rừng xanh nước biếc, anh đã nghe nhiều, thấy nhiều, hiểu biết nhiều về vùng đất Cà Mau, đất Mũi, U Minh.
Năm 1954, sau Hiệp định Genève, Sơn Nam được phân công về Sài Gòn công tác. Với vốn tích lũy vô cùng phong phú anh đã viết hàng loạt bài về vùng đất U Minh đăng trên các báo công khai và được độc giả hoan nghênh, yêu thích.
Suốt 9 năm kháng chiến chống Pháp, rừng U Minh, là vùng căn cứ địa cách mạng bất khả xâm phạm của chiến trường miền Tây Nam Bộ. Nhưng lúc bấy giờ người dân Sài Gòn, người dân các tỉnh miền Đông và miền Trung Nam Bộ mấy ai đã hiểu tận tường về vùng đất hoang vu này.
Những bài viết của Sơn Nam đã giúp đồng bào hiểu thêm phần nào về rừng U Minh, về mũi đất Cà Mau cuối cùng của Tổ quốc.
Đọc "Hương rừng Cà Mau" đồng bào hiểu thêm được về thiên nhiên, về lịch sử, về đời sống, về con người của vùng đất xa xôi huyền bí này.
Đọc "Hương rừng Cà Mau" đồng bào sẽ hiểu thêm về Hòn Cổ Tron, về sông Gành Hào, về đàn ong mật, về đàn rắn, đàn sấu U Minh, về mùa len trâu, về những đêm hát hội giữa rừng, về những cuộc đua ghe ngo, về điệu hò trên sông nước...
Bàng bạc trong những trang sách này là một tình yêu quê hương đậm đà đằm thắm. Người đọc sẽ thấy lòng thương cảm xót xa với nỗi đau khổ của quê nghèo: ông Từ Thông suốt đời cô độc, trên Hòn Cổ Tron tứ bề mịt mờ sóng nước. Lão Bích sống không nơi gởi thịt, thác không nơi gởi xương, cuối cùng xương thịt phải rã tan trong dòng phù sa ngầu đục-; và biết bao người đã ra đi mở đất tìm kế sinh nhai và đã chết vì săn bắt hùm thú.
Hồn ở đâu đây
Hồn ơi hồn hỡi
Xa cây xa cối
Xa cội xa nhành

Đầu bãi cuối gành
Hùm tha sấu bắt
Bởi vì thắt ngặt
Manh áo chén cơm...
Cũng bàng bạc trong những trang sách này là một ý thức chống xâm lăng triền miên sâu sắc.
Vị đạo sĩ già truyền lại cho đời sau đường quyền Lưu Thủy với chức vị: "Chặt đầu Tây", nỗi tủi nhục xót xa của Lục cụ Tăng Biên khi được nhà nước Lang-sa tặng cho lá cờ tam sắc, giải nhất trong cuộc đua ghe ngo trên sông Cái Lớn, nỗi đau thương dằn vặt với những hồn oan bị giặc Tây tàn sát ở đìa Gừa, ở gò Mả Lạn, và đâu phải ngẫu nhiên mà Sơn Nam đã bắt viên kiểm lâm Rốp người Pháp phải chắp tay xá chú Tư Đức "một người đốn củi lậu có đức, có tài, biết thương cuộc sống", như vua Hy Lạp Mi-lan-đa, đã chắp tay xá vị pháp sư Ấn Độ Na-ga-sơ-na vì lòng cảm phục kính yêu.
Điều chúng ta nên nhớ là nhà văn Sơn Nam đã viết quyển sách này giữa lòng đô thị dưới thời Mĩ ngụy, viết dưới sự kiểm duyệt khắt khe của kẻ thù, viết trong khi luật 10/59 đặt cộng sản ra ngoài vòng pháp luật, viết trong khi bọn Mỹ Diệm kéo lê máy chém trên khắp nẻo đô thành, viết trong lúc hầu hết những anh chị em văn nghệ sĩ yêu nước cách mạng đều sa vào tù ngục.
Muốn những trang sách này có thể ra mắt đồng bào Sài Gòn lúc ấy, tác giả đã phải "luồn", phải "lách" và trong hoàn cảnh ấy, quyển sách không thể không có ít nhiều hạn chế. Đó là điều người đọc nên thông cảm.
Tuy nhiên, "Hương rừng Cà Mau" vẫn là một tác phẩm giá trị và nó vẫn sống trong lòng ngườiđọc, nó vẫn sống với thời gian.
Tôi tin rằng, ngày mai khi U Minh Thượng, U Minh Hạ, khi rừng Cà Mau rực rỡ ánh đèn, khi mỗi con người đều ấm no hạnh phúc, khi tiếng hát ca vang dội thôn xóm sáng chiều, thì ngày ấy "Hương rừng Cà Mau" vẫn giữ nguyên hương vị của nó vì nó sẽ gợi cho cháu con hạnh phúc thương nhớ và xót xa với số phận đầy gian truân khổ ải của ông cha, những người đã vắt cạn mồ hôi, đã trộn máu xương vào đất trong những cuộc vật lộn với thiên nhiên, trong những cuộc đấu tranh chống áp bức bất công, chống cường quyền bạo lực, chống quân xâm lược dã man, đã trộn máu xương mình vào đất để tạo dựng nên một mũi Cà Mau, vùng đất cuối trời xanh tươi bát ngát của Tổ quốc Việt Nam, để lưu truyền lại ngàn đời cho con cháu.
Thành phố Hồ Chí Minh ngày 08 tháng 05 năm 1986
VIỄN PHƯƠNG
(Chủ tịch Hội Văn nghệ Tp.HCM)


Những chuyện xảy ra vào khoảng 1939-1940. Tên các nhân vật đều do tưởng tượng mà ra, nếu trúng với những người có thật thì đó chỉ là sự tình cờ, ngoài dụng ý của tác giả.
Thay lời tựa
Trong khói sóng mênh mông,
Có bóng người vô danh
Từ bên này sông Tiền
Qua bên kia sông Hậu
Mang theo chiếc độc huyền
Điệu thơ Lục Vân Tiên
Với câu chữ:
Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả,
Tới Cà Mau-Rạch Giá
Cất chòi, đốt lửa giữa rừng thiêng...
Muổi, vắt nhiều hơn cỏ,
Chướng khí mù như tương.
Thân không là lính thú
Sao chưa về cố hương?
Chiều chiều nghe vượn hú,
Hoa lá rụng, buồn buồn


Tiễn đưa về cửa biển
Những giọt nước lìa nguồn,
Đôi tâm hồn cô tịch
Nghe lắng sầu cô thôn
Dưới mây trời heo hút...,
Hơi Vọng Cổ nương bờ tre bay vút
Điệu Hò...ơ theo nước chảy, chan hòa.
Năm tháng đã trôi qua
Ray rứt mãi đời ta
Nắng mưa miền cố thổ
Phong sương mấy độ qua đường phố,
Hạt bụi nghiêng mình nhớ đất quê...
HÒN CỔ TRON
Ông Từ Thông ra hòn Cổ Tron cất chòi mà nương náu không biết từ bao nhiêu niên kỷ rồi. Tóc của ông lốm đốm bạc, khi thì thả dài xuống khỏi lưng quần, khi thì bới thành búi to sau ót, gài lại bằng một cọng gai kim quít. Một bộ quần áo nghĩ cũng hơi dư mặc đối với ông! Nhiều khi năm ba tháng liên tiếp ông phơi lưng trần với nắng, bên mấy gốc săn đá cổ thụ, lá cành xơ xác vì những cơn gió triền miên của biển khơi. Khi trời nực thì có những khe suối trong veo đón mời. Ông cứ ung dung mà uống, mà tắm một cách tự nhiên, vô tình khuấy rối giấc mơ của đàn bướm trắng đang xao động bay lên chập chờn như muốn rời mấy nhánh mai hoẳng lơ thơ cúi nghiêng mình chấm mi nước...Hôm nào vui cho bằng hôm mười bốn, hôm rằm! Ông Từ Thông ra sau rẫy, đào lên củ khoai môn to lớn, đem luộc chín. Ngồi trên vồ cẩm thạch, ông chậm rãi ăn buổi chiều, thỉnh thoảng rứt từ miếng khoai, thảy xuống nước. Loài cá nhỏ bu lại nhởn nhơ mỗi con khoe một vẻ riêng. Tận dưới đáy biển, loại sò, loại ốc, loại nhum đang há miệng, le lưỡi bò chậm chạp trên nền đá tím nổi gân vàng, trên nền đá vàng nổi gân trắng. Hoàng hôn tràn tới chính là lúc cảnh vật dưới nước ngời lên, bóng mây phản chiếu lấp lánh như gấm. Đêm về, trăng mọc. Nơi thủy cung rộn rịp nào kém chốn trần gian! Từng đợt sóng chìm lững lờ mơn trớn, khoác thêm lớp xiêm lụa mỏng cho bầy cá hường. Và muôn vì sao trên dải Ngân Hà sa xuống đậu lấm tấm khắp nhánh sa hô trắng bạc.
Ở Hòn Cổ Tron giữa vịnh Xiêm La này, ông Từ Thông cơ hồ quên cả loài người và loài người cũng hầu như quên rằng mình có một đồng loại ở ngoài mõm đá chơi vơi kia. Điều ấy, chúng ta không nên trách ai cả, chẳng qua là...hải giác thiên nhai. Không lẽ ông phải vượt bốn mươi cây số đường biển để tới công sở Lại Sơn, bên Hòn Rái mà trình diện. Chính quan chủ quận Châu thành Rạch Giá còn ngán đi kinh lý đến làng Lại Sơn! Từ dinh quận của ông đến công sở làng ít nhứt cũng là năm chục cây số đường hải đạo mênh mông sóng cồn. Mấy chiếc "ca nốt" oai hùng trong sóng rạch chỉ là cái vỏ trứng vịt giữa biển, Nhà nước thuộc địa nào chú ý đến việc cung cấp tàu đồng, tàu sắt để quan chủ quận đi cai trị dân! Không lẽ ông chủ quận lại cưỡi ghe bầu hàng trăm cây số. Vả lại ghe bầu nào phải như chim trời mà bay thẳng một đường ngay. Ghe chạy theo đường gãy. Ngoài biển khơi, đường gãy là đường gần nhất giữa hai điểm cách nhau; cái khoảng gần trăm cây số trên kia kéo dài gấp ba, gấp bốn.
Năm ấy, tháng ấy, ngày ấy...ông Từ Thông bỗng nghe chút gì băn khoăn, rạo rực trong lòng ông và ở ngoài đời. Từng đàn chim sắc đen ngòm như bầy quạ bay lượn quanh hòn Cổ Tron, rú lên, rít lên, lắm lúc như toan đáp xuống, đột nhiên đảo ngược, đi thẳng một mạch khuất trong mây khói.
-Bữa nay họ làm cái gì vậy cà?
Ông Từ Thông hối hả trèo lên chót đá mà ngóng. Hướng Nam, hướng Tây, hướng Bắc không có gì lạ. Duy có hướng Đông: kìa, sừng sững dưới ánh nắng mai năm ba hòn đảo nhô lên, những hòn đảo mới lạ. Ông trố mắt, liên tưởng tới phép dời non lấp biển rất nhiệm mầu của tay Thợ Trời khéo léo. Không thể lầm lẫn được! Hồi nào đến giờ , ông rất sành sỏi về vị trí mấy hòn đảo nhỏ án ngữ chung quanh đây. Từ hòn đảo mới nổi ấy, một đốm trắng ngời, một chiếc "ca nốt" rồi hai chiếc, ba chiếc đang rẽ sóng chạy phăng lại nơi ông ở. "Tự năm bảy năm nay, mình chưa mất lòng một con sâu, một con kiến, không lẽ bây giờ có kẻ báo oán mình? Oán nào đã gây ra mà báo?". Nghĩ vậy,ông trở xuống chân hòn sát mé biển, chờ đợi.
Chập sau, mấy chiếc "ca nốt" xáp gần bờ; họ đưa tay ngoắc ông.
Người Việt Nam nọ lên tiếng:
-Ông già! Lại đây quan lớn hỏi.
Ông Từ Thông nhìn năm sáu người mặc võ phục trắng đứng gần thầy thông ngôn.
Mấy người mặc võ phục nói ríu rít. Ông đoán đó là "tiếng Tây"...
-Ông già! đây là Bu-lô Đa-ma?
Ông đáp:
-Dạ không biết. Nó là hòn Cổ Tron. Chung quanh đây là mười hòn nhỏ khác. Không có nơi nào kêu là hòn Đa-ma...
-Vậy thì nó là hòn Nam Du, trong bản đồ ghi rõ đường hoàng. Ông nói kỳ quá!
Ông Từ Thông lắc đầu:
-Dạ, lời thật khai ngay. Tôi không biết. Xung quanh đây là hòn Mẫu, hòn Dài, hòn Cổ Sơn, hòn Móng Tay.
Chập sau, thầy thông ngôn mới đồng ý:
-Đúng vậy, Bu-lô Đa-ma hoặc hòn Nam Du là tên theo sách chữ nho, theo nhà binh. Hòn Cổ Tron là tên tục của nó. Nè ông lão! Quan lớn ra lịnh như vầy...
-Bẩm thầy, quan lớn là người của nước nào, tôi chưa rành.
-Ông giỡn sao chớ? Hay là ông ngủ mê? Cỡ này, nhà nước thuộc địa Tây đánh với nước Xiêm.
-Bẩm thầy, đánh ở đâu? Tôi chưa được am tường.
-Đánh tại nước Cao Miên. Đánh luôn tại Bu-lô Đa-ma tức là cái hòn Cổ Tron này.
Ông Từ Thông cau mày:
-Mô Phật. Cầu xin Phật Trời...
Thầy thông ngôn đắc ý:
-Không sao đâu! Hễ làm con dân thì phải gánh vác nghĩa vụ. Quan lớn muốn biết hổm rày có tàu bè lạ nào chạy tới đây do thám không?
-Dạ, không thấy.
-Hòn này bao nhiêu dân đinh?
-Bẩm thầy, có một mình tôi thôi. Còn mấy hòn gần đây, tôi không rành. Chắc là năm bảy người, toàn dân "An Nam" mình.
-Được, thôi bây giờ quan lớn muốn ông kiếm dùm trái cây, nước ngọt. Rồi quan lớn cho chút ít tiền....Thời buổi này ông nên xài phí. Việc sống chết bất thường lắm.
Có lẽ sợ ông Từ Thông trốn luôn trên chót hòn nên thầy thông ngôn đi theo sát bên ông, sẳn sàng giúp ông quảy mớ chuối, mớ mít. Trước lạ sau quen, ông Từ Thông hỏi dọ sơ qua về tình hình trong bờ:
-Trận giặc này không biết dân "An Nam" mình bao nhiêu không thầy?
-Hỏi làm chi vậy? Ở đây yên thân già của ông rồi. Nghe nói dân miệt Hốc Môn, miệt Long Hưng...nhộn dữ lắm. Tây không muốn nói chuyện đó.
Một mối buồn len vào tâm não ông Từ Thông. Ông nghe gió thổi bốn bề, lạnh lùng. Lương tri như rực sáng nhắc nhỏ ông món nợ gì đối với đồng bào, giang sơn. Không giúp nước được thì ít ra ông cũng cần biết những gì xảy ra đau buồn trong nước. Cây có cội. Nước có nguồn. Chim có tổ. Cá có hang. Đôi mắt già của ông Từ Thông ngẩn ngơ nhìn muôn lớp sóng cồn. Chân trời u ám, mấy đám mây đang bay thấp là đà...Ông hổ thẹn, tủi bấy phận mình không bằng con đỗ quyên đêm hè kêu khắc khoải.
Thầy thông ngôn nói to khiến ông giật mình:
-Quan lớn đi về. Ông muốn xin điều gì, vật gì không? Ông tử tế lắm.
Ông Từ Thông chắp hai tay ra vẻ cung kính:
-Tôi muốn vô trong đất liền, miệt Rạch Giá hay Cà Mau gì cũng được để thăm bà con. Nhờ quan lớn
ÔNG GIÀ XAY LÚA
Tây cai trị xứ mình...





Wednesday, April 11, 2012

Từ điển Hoa-Việt thực dụng

Từ điển Hoa-Việt hiện đại thực dụng

华越词典

A

ā

1 A Thêm trước tiếng xưng hô biểu thị sự thân mật hay quan hệ thân thuộc ❷Chữ dùng để mô phỏng âm này (a) như: 阿司匹林 /ā sǐ pǐ lín/Aspirin.

阿斗

阿飞

阿芙榕

阿拉伯

Khng Đc-Đt Sĩ

T đin Vit-Hoa hin đại

A

a 越语弟一字母/yuè yǔ dì yī zì mǔ/ ❷ 阿!ā A! Mẹ đã về 阿!妈 回来了 /ā! Mā mā húi lái le/ 阿谀/ē yú/A dua❹/ā/ A hoànㄚ环/ā huán/.

a ca/ā gē/阿哥。

A Di Đà Phật阿弥陀佛/ā mítuó fó/Nam mô A Di Đà Phật南无阿弥陀佛/nā mó ā mí tuó fó/.

a giua /ē yú/ 盲从/máng cóng/ A dua nịnh bợ 逢迎/ ē yú féng yíng/.

a giao 阿胶 /ā jiāo/; 牛胶/níu jiāo/.

a ha 阿哈a ha A ha! Đẹp quá! 阿哈! 太美了A ha! Tài měi le!

a hoàn ㄚ环/ā huán/;ㄚ头 /yā tou/.

A La Hán (Arhat) 阿罗汉 /ā luó hàn/; 罗汉 /luó hàn/.

a-lê (aller) /qù/.

a-lô /wèi/哈罗/hā luo/.

a men阿门/ā mēn/.

a-lu-min (alumine)//.

a-pa-tít (apatite) 磷灰石/lín huī shí/.

a phiến鸦片/yā piàn/.

a phù dung阿芙蓉/ā fú róng/.

ASEAN东南亚国家联盟(东盟)/dòng nán yà guó jià lián méng (dòng méng).

a tòng (tùng) 阿从/ā cóng/盲从/máng cóng/ ;胁从/xié cóng/胁从胁从不问/xié cóng bú wèn/Không truy cứu kẻ a tòng.

A-xít (acide) /suān/强性酸/qiáng xìng suān/有机酸/yǒu jī suān/无机酸/wú jī suān/.

a❶惊痛声 /jīng tòng shēng/:哎哟/āi yō/哎哟疼死了/ āi yō, téng sǐ le!表示惊讶 : 哎呀/āi yā/ Á, lạ quá! 哎呀, 真怪!/āi yā, zhēn guài/.

Á châu 亚洲 /yà zhōu/

Á đông 亚东 /yà dōng/.

á hậu 选美皇后亚军/xuǎn měi huáng hòu yā jūn/.

á khẩu 亚口 /yǎ kǒu/.

á khôi亚魁/yà kuí/.

á kim 亚金 /yà jīn/.

á phiện亚片/yā piàn/.

á quân亚军/yà jūn/.

á thánh亚圣/yǎ shèng/.

Á vận hội亚运会/yà yùn huì/.

a ❶ (英答语)à ( yìng dá yǔ) À, tôi biết rồi啊我知道了/ā wǒ zhī dao le/表示反 问:Nói thật đấy à ?说的是真话吧 ?/shuō de shì zhēn huà ba ?

à này /ò/ À này, tôi còn việc này muốn nhờ anh 哦,还有一件事想麻 烦你一下/ò,hái yǒu yījiàn shì xiǎng má fan nǐ yī xià/.

女子/nǚ zǐ/ Cô 婀姐/ē jiě/.

ả đào /gē jì/ 歌妓.

ả hằng /héng é/ .

ả phù dung /yā piàn/ 鸦片.

Ả Rập 阿拉伯/ā lā bó/ Số Ả Rập阿拉伯 数字/ā lā bó shū zì/.

语气词 /yǔ qì cí/; 用于句尾/yòng yú gòu wěi/ Vâng ạ! 是的/shì de/ Không ạ! /é bù/有的/yǒu de/ Có ạ ; Các con ạ ! 孩子啊 /hái zi a/.

ác /è/ Hung ác /xiōng è/乌鸦 /wū yā/ Ác tắm thì ráo, sáo tắm thì mưa 浴则燥, 岩燕浴则雨/yā yù zé zào, yán yàn yù zé yǔ//xiōng/ ; /hěn/.

ác bá /è bà/.

ác báo /è bào/Ác giả ác báo 恶有恶 /è yǒu è bào/ Thiện hữu thiện báo, ác hữu ác báo 善有善报,恶有恶报/shàn yǒu shàn bào, è yǒu è bào/.

ác cảm恶感 /è gǎn/.

ác chiến 恶战 /è zhàn/.

ác-coóc-đê-ông (accordéon) 手风琴 /shǒu fēng qín/.

ác đồ 恶徒 /è tú/.

ác độc /è dú/.

ác đức 恶德/è dé/.

ác ại /è hài/ ; /wēi hài/.

ác hiểm 险恶/xiǎn è/.

ác khẩu 恶口/è kǒu/恶口相骂/è kǒu xiāng mà/Ác khẩu mắng nhau.

ác là 喜鹊 /xǐ-que/.

ác liệt 恶烈 /è liè/ Chiến tranh ác liệt /jī zhàn/激战;/ è zhàn/恶战.

ác ma 恶魔 /è mó/.

ác-mô-ni-ca (harmonica) /kǒu qín/口琴

ác mộng 恶梦 /è mèng/一场恶梦/yī cháng è mèng/.

ác một cái là 倒霉的是/dǎo méi de shì/.

ác nghiệp /è yè/.

ác nghiệt 恶孽 /è niè/ /xiōng cán/.

ác ngôn 恶言 /è yán/恶言 伤人/è yán shāng rén/Ác ngôn hại người.

ác nhân 恶人/è rén/恶人得恶报/è rén dé è bào/

ác ôn 恶棍/è gùn/.

ác phụ 恶妇 /è fù/.

ác quả 恶果/è guǒ/.

ác quỷ恶魔/è mó/; 厉鬼 /lì gǔi/.

ác sự恶事/è shì/.

ác tăng恶僧/è sēng/.

ác tật恶疾/è jí/.

ác thần /è shén/.

ác thú 猛兽/měng shòu/.

ác tính恶性/è xìng/ 恶性肿瘤/è xìng zhǒng líu/.

ác tướng /è xiàng/.

ác vàng金乌/jīn wū/太阳/tài yáng/.

ác ý恶意 对他们无恶意或反感 /dùi tā men wú è yì huò fǎn cǎn/.

ách /è/ Ách trâu 牛轭枷锁/jiā suǒ/ Ách nô lệ奴隶的枷锁/è/.

ách nạn /è nàn/ ; /kǔ nàn/.

ách tắc厄赛 /è sāi/.

ách vận厄运 /è yùn/.

ạch (重物坠落声)/zhòng wù zhuì luò shēng/ Hơi thở è ạch /qì chuǎn xiū xiū/.

ạch đụi 劳碌的/láo lù de/.

Ai /shúi/ Ai đó? 谁人呢/shúi rén ne?/ Ai nói làm sao bào hao làm vậy人云亦云/rén yún yì yún//āi/ Bi ai 悲哀/bēi āi/❸/āi/尘埃/chén āi/ .

ai ai人人/rén rén/每一个人/měi yī gè rén/ 众所周知/zhòng suǒ zhōu zhī/.

ai buộc nấy gỡ 解铃系铃 /jiě líng xì líng/.

Ai Cập 埃及/āi jí/.

ai dè 想不到/xiǎng bú dào/; 谁料/shúi liào/.

AIDS 爱滋病防治 Phòng chống AIDS /ài zǐ bìng fáng zhì/.

ai điếu 哀吊 /āi diào/.

ai đời 哪有人 /nǎ yǒu rén/Ai đời lại đi tin chuyện vô lý thế哪有人相信这样无理的事情/nǎ yǒu rén xiāng xìn zhè yàng wú lǐ de shì qíng/.

ai hoài哀坏 /āi huái/.

ai khảo mà xưng不打自招/bù dǎ zì zhāo/.

ai lại 又有谁/yòu yǒu shúi/; 何必/hé bì/.

ai làm nấy chịu自作自受/zì zuò zì shòu/.

ai lo phận nấy各自为政/gè zì wéi zhèng/.

ai mượn谁叫你/shúi jiào nǐ/;谁要/shúi yào/;谁让 /shúi ràng/谁叫你插嘴 /shúi jiào nǐ jiàn kāng/.

ai nấy每一个人 /měi yī gè rén /个个人都建康 /gè gè rén dōu jiàn kāng/.

ai ngờ 谁知 /shúi zhī/; 谁料/shúi liào/.

ai oán哀怨

ái /ài/爱情/ài qíng/❷唉呀/āi yā/嚄哟/ō yō/ Ái, đau quá哎呀 疼死了/ āi yā, téng sǐ le/.

ái ân 恩爱/ēn ài/.

ái chà (语气词) Ái chà, mẻ lưới kéo được nhiều cá quá! 一网打那么多鱼/yō, yī wǎng dǎ le nà me duō yú/.

ái chà chà=ái chà.

ái dà=ái chà.

ái hữu爱又/ài yǒu/ hội ái hữu 联谊会 /lián yī huì/爱又会/ài yǒu huì/.

ái lực秦和力 /qīn hé lì/.

ái mộ 爱慕/ài mù/ Ái mộ lẫn nhau 互相爱慕/hǔ xiāng ài mù/.

ái nam ái nữ 半男半女/bàn nán bàn nǚ/.

ái ngại于心不安 /yú xīn bù ān/; 难为情/nán wéi qíng/Có chút ái ngại 有点难为情/yóu diǎn nán wéi qíng/.

ái nữa爱女/ài nǚ/.

ái quốc爱国/ài guó/ Nhà ái quốc爱国者/ài guó zhě/.

ái tình爱情 /ài qíng/

ải/ài/ Cửa ải 要隘/yào ài/ ; 隘口/ài kǒu/.

ải quan关爱/guān ài/.

Am小庙/xiǎo miào/ /ān/Am ni cô 尼姑庵/ní gū ān/.

am hiểu痛晓/tōng xiǎo/ Am hiểu tình hình.

am tường谙详/ān xiáng/.

am vãi师姑庵 /shī gū ān/.

ám❶/àn/❷缠扰/chán rǎo/❸熏黑/xūn hēi/ Trần nhà bị ám khói天花板被烟火熏黑了/tiān huā bǎn bèi yān huǒ xūn hēi/.

ám ảnh暗影/àn yǐng/.

ám chỉ暗指/àn zhǐ/ 暗示/àn shì/ 意思暗示你的/yǒu yì sī àn shì nǐ de/.

ám hại 安海/àn hài/ 陷害/xiàn hài/.

ám hiệu 暗号/àn hào/ 打暗号/dǎ àn hào/.

ám khí/àn

ám muội/àn

ám sát/àn

ám thị/àn

ám trợ/àn

ảm đạm/àn dàn/; /hūn chén/; /hūi àn/ /tiān sè yīn àn /

an/ān/ Chuyển nguy thành an/zhuǎn wēi wéi ān/.

an bài /ān pái/.

an bang/ān bāng/

an bần lạc đạo

an-bom (album)

an cư lạc nghiệp

an dân

an dưỡng

an định

an giấc ngàn thu

an hưởng

an khang

an lạc

An Nam

an lòng

an nghỉ

an nguy

an nhàn

an ninh

an phận

an táng

an tâm

an thai

an thân

an thần

an tọa

an toàn

an trí

an ủi

an vị

án

án binh bất động

án buôn lậu

án dân sự

án đặc biệt

án đưa hối lộ

án giết người

án hình sự

án kiện

án mạng

án ngữ

án ngự

án phí

án sai

án thư

án tù

án tử hình

ang

ang áng

áng

áng chừng

áng như

anh

anh ách

anh ánh

anh cả

anh chàng

anh chị

anh chị em

anh chồng

anh con bác

anh dũng

anh đào

anh em

anh em bạn

anh em chú bác

anh em cọc chèo

anh em cô cậu

anh em kết nghĩa

anh em thúc bá=anh em chú bác

anh giai=anh trai.

anh hai

anh hào

anh họ

anh hùng

anh kiệt

anh linh

anh minh

anh mù dẫn anh lòa

Anh ngữ

anh nuôi

anh rể

anh ruột

anh ta

anh tài

anh thư

anh trai

anh trưởng

anh tú

anh tuấn

anh túc

anh vợ

anh vũ

ánh

ánh chớp

ánh đèn

ánh nắng

ánh sáng

ánh trăng

ảnh

ảnh 3x4

ảnh 4x6

ảnh bán thân

ảnh chụp nghiêng

ảnh chứng minh thư

ảnh hưởng

ảnh thật

ảnh toàn thân

ảnh vẽ

ảo

ao bùn

ao cá

ao chuôm

ao hồ

ao muối

ao tù

ao ước

áo

áo ấm

áo bà ba

áo bành tô

áo bào

áo bó

áo bông

áo bơi

áo cà sa

áo cánh

áo cẩm bào

áo cầu thủ

áo chầu

áo chẽn=áo bó.

áo choàng

áo cổ đứng

áo cộc

áo cộc tay

áo cưới

áo dài

áo dại cán

áo đuôi nhạn=áo đuôi tôm.

áo gấm

áo giáp

áo gi-lê (gillet)

áo gió

áo gối

áo hở lưng

áo dắc-két (jacket)

áo khoác

áo khoác bông

áo khoác

áo khoác bông

áo khoác tắm

áo kimono

áo len

áo lễ

áo liệm

áo lót

áo lót nữ

áo long bào

áo may-ô (maillot)

áo may sẳn

áo mưa

ảo não=ảo não.

áo ngắn

áo ngoài

áo ngủ

áo pa-đờ-xuy (pardessus)

áo phao

áo quan

áo quần

áo rách quần manh

áo sơ-mi (chemise)

áo sô

áo tang

áo tắm

áo tế

áo thể thao

áo thọ

áo thun

áo tơi

áo trấn thủ

áo trong

áo tù

áo vá trăm mảnh

áo vắn

áo vét-tông (veston)

áo xống

ào

ào ào

ào ạt

ảo

ảo ảnh

ảo cảnh

ảo giác

ảo mộng

ảo não

ảo thuật

ảo tưởng

ảo vọng

áp

áp bức

áp cao

áp chảo

áp chế

áp dụng

áp đảo

áp đặt

Áp-ga-ni-xtan (Afghanistan)

áp giải

áp kế

áp khí

áp lực

áp-phe (affaire)

áp phích (affiche)

áp suất

áp tải

áp thấp

áp-xe (abcès)

át

át chủ bài

át-mốt-phe (atmosphère)

au

áy náy

Ă

ắc

ắc-quy (accu)

ăm ắp

ăm-pe (ampère)

ăm-pli (amplificateur)

ẵm

ẵm mất

ẵm ngửa

ẵm trọn

ẵm ngửa

ẵm xốc

ăn

ăn ảnh

ăn bám

ăn bậy nói bạ

ăn bẩn

ăn bận

ăn bớt

ăn bốc

ăn bớt

ăn cánh

ăn cám trả vàng

ăn cay uống đắng

ăn cắp

ăn cây nào rào cây ấy

ăn cháo đá bát

ăn chay

ăn chắc

ăn chắc mặc bền

ăn chặn

ăn chận=ăn chặn.

ăn chia

ăn chịu

ăn chơi

ăn chơi đàng điếm

ăn chơi sa đọa

ăn chung

ăn chung ở chạ

ăn chực

ăn chực nằm chờ

ăn cơm

ăn cỗ

ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau

ăn cơm chúa, múa tối ngày

ăn cưới

ăn cướp

ăn dè

ăn diện

ăn điểm tâm

ăn đói mặc rách

ăn độn

ăn đời ở kiếp

ăn đút lót

ăn đứt

ăn gian

ăn gian nói dối

ăn gió nằm sương

ăn giỗ

ăn hại

ăn hàng

ăn hiếp

ăn học

ăn hỏi

ăn hối lộ

ăn ké

ăn khách

ăn khao

ăn không ngồi rồi

ăn khớp

ăn không cần no

ăn kiêng

ăn kiêng ăn khem

ăn lãi

ăn lấn

ăn liên hoan

ăn lông ở lỗ

ăn lời=ăn lãi.

ăn lương

ăn mảnh

ăn mày

ăn mặc

ăn miếng trả miếng

ăn mòn

ăn mừng

ăn nằm

ăn năn

ăn nên làm ra

ăn ngay nói thẳng

ăn ngon mặc đẹp

ăn nhằm

ăn nhịp

ăn nhờ

ăn như hạm

ăn nói

ăn ở

ăn ở cần kiệm

ăn quả

ăn quả nhớ kẻ trồng cây

ăn quịt

ăn rơ

ăn sáng

ăn sống

ăn sống nuốt tươi

ăn sung mặc sướng

ăn sương

ăn tái

ăn tạp

ăn-ten=ăng-ten.

ăn tết

ăn theo thuở, ở theo thì

ăn thề

ăn thôi nôi

ăn thua

ăn tiệc

ăn tiền

ăn tiêu

ăn tối

ăn trái nhớ kẻ trồng cây

ăn tráng miệng

ăn trầu

ăn trộm

ăn trưa

ăn tục nói phét

ăn uống

ăn vạ

ăn vặt

ăn vận=ăn mặc.

ăn vụng

ăn xài

ăn xin

ăn xổi ở thì

ăn ý

ăng ẳng

Ăng-lê (England)

ăng-ten

ắp

ắt

ắt hẳn=ắt.

ắt phải

Â

âm

âm ba

âm binh

âm bản

âm cực

âm dương

âm đạo

âm điệu

âm độ

âm đức

âm giai

âm gian

âm học

âm hộ

âm hồn

âm hưởng

âm ỉ

âm khí

âm-pli=ăm-pli.

âm lịch

âm lượng

âm mao

âm môi

âm mưu

âm phần

âm phù

âm phủ

âm quãng

âm răng

âm sắc

âm tần

âm thanh

âm thầm

âm thần

âm thịnh dương suy

âm thoa

âm tiết

âm tính

âm ty

âm u

âm vang

âm vận

âm vật

âm vị

âm vực

ấm

ấm a ấm ớ

ấm ách

ấm áp

ấm ấm=âm ấm

ấm cật

ấm cật no lòng

ấm bạc

ấm chén

ấm có quai xách

ấm cúng

ấm đất

ấm đầu

ấm đồng

ấm đun nước

ấm êm

ấm lạnh

ấm nhôm

ấm no

ấm nước

ấm ớ

ấm tích

ấm ứ

ầm

ầm à ầm ừ=ầm ừ

ầm ầm

ầm ì

ầm ĩ

ầm ừ

ẩm

ầm ầm

ẩm độ

ẩm sì

ẩm thấp

ẩm thực

ẩm ướt

ậm ọe

ân

ân ái

ân cần

ân công

ân cừu

ân điển

ân đức

ân giảm

ân hận

ân huệ

ân nghĩa

ân nhân

ân oán

ân sủng

ân sư

ân thưởng

ân tình

ân trạch

ân tứ

ân xá

ấn

ấn bản

ấn cảo

ấn chương

ấn định

Ấn Độ

ấn đường

ấn hành

ấn ký

ấn loát

ấn phẩm

ấn phím

ấn quán

ấn số

ấn tích

ấn tín

ấn tượng

ẩn

ẩn cư

ẩn danh

ẩn dật

ẩn dụ

ẩn giấu

ẩn hàm

ẩn hiện

ẩn hoa

ẩn khuất

ẩn lánh

ẩn mình

ẩn náu

ẩn nấp

ẩn ngữ

ẩn nhẫn

ẩn sĩ

ẩn tàng

ẩn tích

ẩn tình

ẩn tưởng

ẩn ý

ấp

ấp a ấp úng

ấp trứng

ấp ủ

ấp úng

ập

ập đến

ập đổ

ập vào

ập xuống

ất

ất giáp

âu

Âu Á

âu ca

Âu châu

Âu hóa

âu là

âu lo

âu phục

âu sầu

âu thuyền

âu yếm

ấu

ấu học

ấu nhi

ấu thơ

ấu thời

ấu trĩ

ấu trùng

ẩu

ẩu đả

ẩu tả

ấy

ấy là

ầy

B

ba

ba ba

ba bị

ba chỉ

ba chìm bảy nổi

ba cọc ba đồng

ba đầu sáu tay

Ba Đình

ba đời

ba gác

ba gai

ba hoa

ba hồi

ba hồn chín vía

Ba Lan

ba láp

ba lăng nhăng

Ba Lê (Paris)

ba-lô (ballot)

ba má

ba mặt một lời

ba mươi

ba pha

ba phải

ba quân

ba que

ba que xỏ lá

ba rọi

ba sinh

ba-ta

ba-tê

ba-toong (bâton)

ba trợn

ba xạo

ba-zờ (base)

bá bệnh

bá chứng

bá đạo

bá hộ

bá láp

bá nghiệp

bá quyền

bá tánh

bá tước

bá vơ

bá vương

bà bầu

bà chủ

bà chúa

bà con

bà con làng xóm

bà cô

bà cố

bà đồng, bà cốt

bà cụ

bà dì

bà đỡ

bà già

bà mai

bà mối=bà mai.

bà mụ

bà ngoại

bà nhà

bà nhạc

bà nội

bà giáo

bà phước

bà thầy

bà trẻ

bà vãi

bà xã=bà nhà.

bả

bả chuột

bả vai

bã bọt mép

bã đậu

bã rượu

bạ

bạ đâu nói đấy

bác

bác ái

bác bỏ

bác cổ

bác đơn

bác gái

bác giai=bác trai.

bác họ

bác học

C

Ca

CA (=công an)

ca-bin (cabine)

ca ca

ca cao

ca cẩm